The images in "The Wind Rises" are breathtaking, with one striking scene after another, imaginative, whimsical, powerful. There are a couple of magnificent sequences, one being the Great Kanto Earthquake of 1923, the most powerful earthquake in Japanese history at that time. It devastated Tokyo and the surrounding areas, and the fires that erupted following the quake turned into a raging firestorm, which leveled miles of the city. The scene unfolds in an eerie and terrible way, the ground buckling and cracking, houses sinking into the depths, power lines sparking as they topple over.
Những hình ảnh trong "Nổi gió" thật ngoạn mục, với các cảnh va đập liên tiếp, sáng tạo, ly kỳ, hùng vĩ. Có một vài thước phim hoành tráng, một là trận động đất Great Kanto năm 1923, trận động đất mạnh nhất trong lịch sử Nhật Bản tại thời điểm đó. Nó tàn phá Tokyo và các vùng lân cận, và các vụ cháy nổ ra sau trận động đất biến thành một cơn bão lửa hoành hành, san bằng hàng dặm của thành phố. Cảnh này phơi bày một cách kỳ quái và khủng khiếp, mặt đất oằn và nứt, ngôi nhà chìm vào sâu, đường dây điện tóe lửa khi chúng đổ nhào
The landscapes are suffused with poetry and beauty that almost aches, and the cloudscapes are like an undulating Maxfield Parrish sky, the sunset-lit clouds rearing up into mountains with planes swooping around the peaks.In "The Wind Rises", we are given a portrait of a bespectacled thinker and dreamer, a boy obsessed with the inner workings of machines, and the way things are put together, a boy who looks around him and understands that what he fantasizes about can become a reality. The same could be said for Hayao Miyazaki, and in a way, "The Wind Rises" is his most personal film.
Cảnh quan đang tràn ngập sự thơ mộng và vẻ đẹp đến nhức nhối, và các đám mây giống như bầu trời Maxfield Parrish nhấp nhô, những đám mây được hoàng hôn rọi vào nhô lên thành núi với máy bay lượn xung quanh các đỉnh núi. Trong "Nổi gió", chúng tôi có được một bức chân dung của một nhà tư tưởng đeo kính và mơ mộng, một cậu bé bị ám ảnh bởi các hoạt động bên trong của máy móc, và cách các thứ kết nối với nhau, cậu bé nhìn xung quanh mình và hiểu rằng những gì cậu tưởng tượng có thể trở thành hiện thực. Cũng tương tự với Hayao Miyazaki, theo một cách nào đó, "Nổi gió" là bộ phim cá nhân của ông ta
Cornelia is convinced that her son is innocent, although all evidence points to the contrary. She sets out to clear his name, to make sure he is not railroaded by the cops (who all treat her with a mixture of impatience and condescension, an interloper in their more practical world). She is desperate to mend the relationship, and yet Barbu is totally closed to her overtures. Gheorghiu as Cornelia is elegant and hard, pained and calculating, competent and shifty. She chain-smokes, and does so in a glamorous way, holding the cigarette up and close to her face. Her eyes shift around the room, taking things in, thinking, re-evaluating, hedging her bets.
Cornelia tin rằng con trai mình vô tội, mặc dù tất cả các bằng chứng đều chống lại. Cô bố trí để xóa tên nó, để chắc chắn rằng nó không bị cảnh sát cáo buộc (tất cả những người đối xử với cô với tất cả sự thiếu kiên nhẫn và nhã nhặn, một kẻ dính mũi vào chuyện của người khác trong thế giới thực của họ). Cô cố gắng cải thiện mối quan hệ, nhưng Barbu là hoàn toàn khước từ lời đề nghị của cô. Gheorghiu như Cornelia là thùy mị và cứng cỏi, đau khổ và tính toán, giỏi giang và gian xảo. Cô hút thuốc liên tục, và hút một cách điệu nghệ, cầm điếu thuốc đưa lên gần khuôn mặt của mình. Đôi mắt cô đảo quanh căn phòng, quan sát mọi thứ, suy nghĩ, tính toán lại, đánh cược với chính mình.
She is not likable; she knows it and it doesn't matter to her. At the raucous birthday party thrown for her early in the film, she dances around with her husband in an empty ante-room, laughing and twirling like a little girl, and there's something tragic about her joie de vivre. There is damage here, somewhere, catastrophic and complete.
Cô không dễ thương, cô biết điều đó và nó không quan trọng lắm. Tại bữa tiệc sinh nhật nhạt nhẽo tổ chức cho cô trong đoạn đầu của phim, cô nhảy múa với chồng trong phòng khách, cười và tinh nghịch như một cô bé, và có gì đó bi bi thương về sự lạc quan của cô. Có một sự tàn phá, ở đâu đó, thảm họa và hoàn tất
This movie was clearly made with a great deal of love. It's arguable that it was made with too much love, as if there ever could be any such thing. Or maybe "love" is not the right word, and "civility" is. My point, alas, is that as a movie, "The New Black" never really catches fire: as I said above, it's very engaging, but it never gets to urgently compelling. Things do pick up when Richen takes up the story of the young new-gospel singer who once went by the name of Tonex, whose coming-out was a galvanic moment for the community.
Rõ ràng bộ phim này đã được thực hiện với một tình cảm dạt dào. Có thể nói rằng rất nhiều tình cảm được dồn vào bộ phim, như thể không có gì hơn thế. Hoặc có thể "yêu" không phải là một từ chính xác, và "lịch sự" . Quan điểm của tôi, than ôi, là như một bộ phim, "The New Black" không bao giờ thực sự bắt lửa: như tôi đã nói ở trên, nó rất hứa hẹn, nhưng nó không phải là quá hấp dẫn. Những thứ có được khi Richen hiểu được câu chuyện của một ca sĩ trẻ theo Tin Lành lấy tên là Tonex, người mà mỗi lần bước ra là một sự khích lệ cho cộng đồng
One does feel churlish for taking a text to task on account that it's conscientiously nice, but Richen's even-handedness, while commendable from a community activist point of view—the point is to build bridges, I presume—does her movie few favors. That said, if you're looking for insight, context, poignancy, the movie does offer all of the above.
Người ta thật sự cảm thấy khó chịu khi chuyển lời nói thành hành động rằng nó thật sự tốt đẹp, nhưng ngay cả khi Richen thuận mồm, trong khi khen ngợi từ quan điểm của một nhà hoạt động cộng đồng là xây dựng các cây cầu, tôi cho là- giúp đỡ bộ phim của cô ấy. Điều đó nói rằng, nếu bạn đang tìm kiếm cái nhìn sâu sắc, bối cảnh, sự cảm động, bộ phim thể hiện tất cả những thứ ở trên.